Tỷ lệ sống sau 5 năm khi ung thư đại trực tràng

Khả năng sống sau 5 năm của bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn 1-2 là hơn 90%, trường hợp u di căn thì tỷ lệ này còn khoảng 15%.

Theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, tỷ lệ sống sót của ung thư đại trực tràng thay đổi theo độ tuổi, loại, giai đoạn bệnh, phương pháp điều trị, cân nặng và người bệnh có hút thuốc hay không.

Tuổi

Độ tuổi trung bình chẩn đoán ung thư đại trực tràng là 68 ở nam và 72 ở nữ. Người được chẩn đoán mắc ung thư này khởi phát ở độ tuổi dưới 50 có tỷ lệ sống sót cao hơn bệnh nhân 50 tuổi trở lên. Tuy nhiên, tỷ lệ sống sót thấp hơn với người được chẩn đoán mắc bệnh này khi còn trẻ (35 tuổi trở xuống).

Người 50 tuổi trở lên mắc bệnh ung thư đại trực tràng thường có tiên lượng xấu hơn. Theo nghiên cứu năm 2015 của Trung tâm Y tế Zaans Medisch, Hà Lan, trên hơn 1.100 bệnh nhân ung thư đại trực tràng, tỷ lệ sống sót chung sau 5 năm với bệnh nhân trên 63 tuổi là 58,8%, giảm xuống 40,8% khi người bệnh trên 79 tuổi.

Giai đoạn

Theo phân loại của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, ung thư đại trực tràng được chia giai đoạn theo mức độ lây lan của khối u. Giai đoạn khu trú (giai đoạn 0-2): giới hạn ở khối u ban đầu, khu vực (giai đoạn 3): ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết, di căn (giai đoạn 4): khối u đã lan đến các cơ quan khác như xương, phổi.

Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư đại trực tràng giai đoạn khu trú là 90,9%, khu vực là 73,4% và di căn là 15,6%. Tỷ lệ sống sót tổng thể sau 5 năm cho tất cả giai đoạn là 65%.

Độ tuổi trung bình chẩn đoán ung thư đại trực tràng ở nam giới là 68. Ảnh: Freepik

Ung thư đại trực tràng thường gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới. Ảnh: Freepik

Loại

Ung thư biểu mô tuyến: Loại này chiếm khoảng 95% tổng số ca ung thư đại trực tràng, gồm ung thư biểu mô tuyến nhầy và ung thư biểu mô tế bào vòng signet.

Ung thư biểu mô tuyến nhầy bắt đầu ở các tuyến sản xuất chất nhầy của đại tràng, có xu hướng xâm lấn hơn các loại khác. Người bệnh ung thư biểu mô tuyến nhầy đại tràng thường giảm khoảng 20% thời gian sống tổng thể.

Ung thư biểu mô tế bào vòng signet chiếm ít hơn 1% các ca ung thư đại trực tràng, rất ác tính. Tỷ lệ sống sót tổng thể sau 5 năm của bệnh này là 36,3%.

Sarcoma: Một loại ung thư phát triển trong các mô liên kết. Hai loại phổ biến nhất ở đại tràng là khối u mô đệm đường tiêu hóa (GIST) và ung thư cơ trơn. GIST thường có tiên lượng xấu hơn, tỷ lệ sống sót sau 5 năm chung là 46%.

Ung thư cơ trơn đại trực tràng rất ít gặp, chiếm ít hơn 0,1% các trường hợp ung thư đại trực tràng, có tỷ lệ sống sót sau 5 năm chung là 43,8%.

Ung thư hạch đại trực tràng nguyên phát: Đây là loại ung thư hạch không Hodgkin ảnh hưởng đến tế bào bạch cầu lympho phát triển ở ruột già. Loại này chiếm 0,5% các ca ung thư đại trực tràng và khoảng 5% tổng số loại ung thư hạch. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm chung của bệnh này là 56,4%.

Phương pháp điều trị

Nghiên cứu trên hơn 100 bệnh nhân của Đại học Khoa học Y tế Tehran, Iran, năm 2015 cho thấy cắt bỏ khối u nguyên phát có thể tăng tỷ lệ sống sót sau 5 năm lên 73,8% và giảm nguy cơ tái phát xuống còn 6,4%.

Theo đánh giá của Đại học Bách khoa Hồng Kông, năm 2019, người bệnh được xạ trị lập thể và hóa trị để điều trị ung thư đại trực tràng giai đoạn 4 có tỷ lệ sống sót sau 4 năm khoảng 43%.

Cân nặng

Thừa cân hoặc béo phì góp phần làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng, ảnh hưởng đến kết quả sau điều trị. Theo nghiên cứu năm 2013 của Trường Đại học Tây Australia, trên 879 bệnh nhân, phụ nữ mắc ung thư đại trực tràng bị béo phì hoặc thừa cân có nguy cơ tử vong vì ung thư cao gần gấp đôi phụ nữ có cân nặng bình thường.

Nguyên nhân do chỉ số khối cơ thể (BMI) cao làm tăng nguy cơ kháng insulin, viêm mạn tính và suy giảm chức năng hormone. Mỗi yếu tố này có liên quan đến khởi phát và tiến triển của ung thư đại trực tràng.

Tập thể dục thường xuyên cải thiện khả năng sống sót của bệnh ung thư đại trực tràng, tỷ lệ tử vong sau điều trị giảm 40-70% ở người hoạt động thể chất thường xuyên.

Hút thuốc

Đánh giá năm 2015 của Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Đức, dựa trên 16 nghiên cứu, với hơn 62.000 bệnh nhân, cho thấy so với người không bao giờ hút thuốc, người hút thuốc sau chẩn đoán mắc ung thư đại trực tràng tăng nguy cơ tử vong trong 60 ngày lên 49%. Người bỏ hút thuốc sau chẩn đoán cải thiện 78% thời gian sống sót so với người không bỏ thuốc lá.

Theo: vnexpress.net

Ung thư hay các bệnh hiểm nghèo khác không phải là dấu chấm hết, nhưng với điều kiện là phát hiện sớm. Vì thế, các chuyên gia y tế khuyến khích người dân có chế độ ăn uống lành mạnh, thể dục thể thao hợp lý và gặp gỡ bác sĩ để được tư vấn danh mục khám định kỳ phù hợp dựa trên nhu cầu riêng, độ tuổi, giới tính, tiền sử gia đình, tiền sử bản thân, chế độ sinh hoạt, thói quen ăn uống, các vấn đề sức khỏe hiện tại.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *