Polyp đại tràng phổ biến ở nhiều người, nhưng có một số trường hợp không triệu chứng và biến chuyển thành ung thư, nên cần chú ý phát hiện sớm.
Chủ quan có thể khiến bệnh nặng lên
Bệnh nhân nam 28 tuổi ở Hà Nội cách đây 3 năm đi khám sức khỏe định kỳ nội soi phát hiện 2 polyp đại trực tràng nhỏ, bác sĩ kết luận lành tính và đề nghị anh theo dõi. Năm đầu tiên bệnh nhân cho biết đã tuân thủ 6 tháng kiểm tra 1 lần nhưng sau đó không thấy triệu chứng gì nên anh chủ quan không khám.
Gần đây bệnh nhân có biểu hiện đại tiện ra máu, đi khám phát hiện polyp đã lớn, ung thư hóa và đã di căn nhiều nơi.
Tương tự, môt nữ bệnh nhân 32 tuổi, đi ngoài có máu kéo dài, tưởng do trĩ và táo bón, đến khi nội soi phát hiện polyp lớn K hóa, chân rộng…
PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, chủ nhiệm khoa phẫu thuật ống tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, cho biết hầu hết bệnh nhân ông gặp có các triệu chứng ban đầu như đại tiện ra máu, đầy hơi chướng bụng…
Nguyên nhân phần lớn là mọi người chủ quan vì polyp đại tràng là một loại tổn thương lành tính do tăng sinh tế bào trên niêm mạc của đại tràng. Polyp đại tràng thường không gây ra triệu chứng và thường không nguy hiểm. Tuy nhiên, một số polyp có thể trở thành ung thư đại tràng nếu không được phát hiện và loại bỏ kịp thời.
Loại bỏ sớm để tránh ung thư
PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn cho biết tỉ lệ thường gặp của polyp đại tràng khá khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm tuổi, yếu tố di truyền, chế độ ăn uống và lối sống.
Theo các nghiên cứu, khoảng 25-40% người trưởng thành từ 50 tuổi trở lên có thể có polyp đại tràng. Tuy nhiên, chỉ một phần nhỏ polyp là ác tính hoặc có khả năng trở thành ung thư.
“Việc phát hiện và loại bỏ polyp đại tràng là quan trọng để ngăn ngừa sự phát triển của ung thư đại tràng. Việc thực hiện xét nghiệm sàng lọc đại tràng, chẳng hạn như xét nghiệm máu trong phân (FIT) hoặc khảo sát nội soi đại tràng, có thể giúp phát hiện và loại bỏ polyp đúng thời điểm” – PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh.
Polyp đại tràng thường không gây ra triệu chứng rõ ràng, đặc biệt khi chúng còn nhỏ. Tuy nhiên, khi polyp lớn hơn hoặc có những biến đổi ác tính, một số triệu chứng có thể xuất hiện, bao gồm:
– Rối loạn tiêu hóa: Những polyp lớn hoặc số lượng polyp nhiều có thể gây ra các triệu chứng liên quan đến tiêu hóa, bao gồm chảy máu đại tràng (thấy máu trong phân hoặc phân màu đen), thay đổi về tình trạng phân (táo bón hoặc tiêu chảy không rõ nguyên nhân), cảm giác mệt mỏi do thiếu sắc tố máu (gây ra thiếu máu).
– Thay đổi về thói quen đại tiện: Một số người bị polyp đại tràng có thể trải qua thay đổi về hành vi ruột, bao gồm cảm giác chưa hết phân, cảm giác ruột chưa được làm trống hoàn toàn sau khi đi vệ sinh.
– Giảm cân không rõ nguyên nhân: Trong một số trường hợp khi polyp lớn hoặc có biến đổi ác tính, người bệnh có thể trải qua giảm cân không rõ nguyên nhân. Nếu polyp đại tràng không được cắt bỏ, một số polyp có thể tiến triển theo các hướng sau:
– Tăng kích thước: Polyp đại tràng có thể tiếp tục phát triển và tăng kích thước theo thời gian. Polyp nhỏ ban đầu có thể trở nên lớn hơn và có thể gây ra các triệu chứng như rối loạn tiêu hóa và chảy máu.
– Biến đổi ác tính: Một số polyp có thể trở thành ác tính (ung thư) theo thời gian. Các biến đổi ác tính trong polyp có thể dẫn đến tạo thành một khối u ung thư đại tràng.
– Lan tỏa và lây lan: Nếu polyp trở thành ác tính, nó có thể lan rộng vào các lớp mô xung quanh đại tràng và có thể lây lan sang các phần khác của cơ thể, gây ra ung thư đại tràng giai đoạn tiến xa.
– Tạo ra các polyp con: Một số loại polyp đại tràng có khả năng tạo ra polyp con. Điều này có thể dẫn đến sự phát triển và tích tụ của nhiều polyp trong đại tràng.
“Vì sự biến đổi ác tính có thể xảy ra, rất quan trọng để phát hiện và loại bỏ polyp đại tràng kịp thời thông qua các xét nghiệm sàng lọc và kiểm tra định kỳ, nhằm ngăn ngừa sự phát triển của ung thư đại tràng” – PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh.
Theo: tuoitre.vn
Ung thư hay các bệnh hiểm nghèo khác không phải là dấu chấm hết, nhưng với điều kiện là phát hiện sớm. Vì thế, các chuyên gia y tế khuyến khích người dân có chế độ ăn uống lành mạnh, thể dục thể thao hợp lý và gặp gỡ bác sĩ để được tư vấn danh mục khám định kỳ phù hợp dựa trên nhu cầu riêng, độ tuổi, giới tính, tiền sử gia đình, tiền sử bản thân, chế độ sinh hoạt, thói quen ăn uống, các vấn đề sức khỏe hiện tại.